Theo các chuyên gia người nhiễm virus SARS-COV 2 không phải ai cũng tự sinh ra kháng thể, và kháng thể cũng không được tạo ra ngay sau khi bệnh nhân bị nhiễm virus. Tổng hợp trên nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ có 23% người nhiễm SARS-COVI 2 có kháng thể IgM sau 1 tuần bị nhiễm virus, 58% sau 2 tuần mới có kháng thể và 75 % sau 3 tuần mới có kháng thể.
Xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể dương tính chỉ thể hiện rằng người đó đã từng bị nhiễm virus SARS-CoV-2 trong quá khứ, chứ không thể khẳng định người đó có đang bị bệnh, có khả năng lây bệnh hay không. Ngược lại, xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể âm tính không có nghĩa là người đó không bị nhiễm, và không lây cho người khác.
Việc làm xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể trong quần thể dân số nguy cơ có giá trị xác định tỷ lệ người từng nhiễm vi rút này, giúp đánh giá quy mô dịch bệnh trong cộng đồng, giúp các nhà hoạch định chính sách có các biện pháp tổ chức chống dịch phù hợp.
Từ đây các bác sĩ có thái độ cẩn trọng trong việc đánh giá kết quả TEST NHANH trong việc lây lan virus trong cộng đồng
Mặt khác đây là biểu hiện của việc hệ miễn dịch có thể bị virus SARS-COV 2 “qua mặt” để tiếp tục xâm nhập sâu hơn vào phổi và các cơ quan nội tạng khác của cơ thể trong khi hệ miễn dịch vẫn chưa được cảnh báo để huy động lực lượng ứng phó sự xâm nhập này.
Dẫn đến một hậu quả xấu sau đó là hệ miễn dịch phát hiện được virus xâm nhập khi mà virus đã tiến sâu vào cơ thể và đồng nghĩa sẽ phản ứng quá mức nhằm đối phó với đội quân SARS-COV 2 đã tràn ngập mọi nơi trong phổi dẫn đến tình trạng “bão Cytokine” khiến phổi bị tắc nghẽn, nguyên nhân chính dẫn đến nhiều ca tử vong trong căn bệnh viêm phổi cấp hiện nay.
“Bão cytokine” là hiện tượng hệ miễn dịch cơ thể phản ứng quá mức, giải phóng ồ ạt cytokine gây viêm, khiến các cơ quan nội tạng suy kiệt.
“Cơn bão cytokine” còn gọi là hội chứng đáp ứng viêm toàn thân, hội chứng giải phóng cytokine, hội chứng thực bào máu. Hội chứng đặc trưng bởi sự gia tăng không kiểm soát của các phân tử miễn dịch, dẫn đến suy tạng, gây tử vong. Bệnh nhân mắc hội chứng giải phóng cytokine có nhịp tim đập nhanh bất thường, sốt cao và tụt huyết áp.
Hội chứng giải phóng cytokine trở nên khá phổ biến trong đại dịch khi cơ thể lần đầu tiếp xúc với mầm bệnh, hệ miễn dịch được kích hoạt, bắt đầu chống lại các yếu tố xâm nhập. Lúc này, các phân tử cytokine có vai trò rất quan trọng, tạo ra một loạt tín hiệu để tế bào sắp xếp phản ứng.
Thông thường, phản ứng miễn dịch càng mạnh thì quá trình đẩy lùi virus càng thuận lợi. Khi mầm bệnh bị tiêu diệt hoặc bất hoạt, hệ miễn dịch trở lại trạng thái bình thường. Song trong một số trường hợp, hệ miễn dịch vẫn làm việc ngay cả khi virus không còn hoạt động nữa. Nó tiếp tục giải phóng cytokine khiến cơ thể trở nên mệt mỏi.
Các phân tử này tấn công vào các cơ quan bao gồm gan và phổi, cuối cùng có thể dẫn đến tử vong. Vào lúc này, chính hệ miễn dịch là tác nhân làm tổn hại cơ thể chứ không phải virus. Bão cytokine cũng là phản ứng đặt trưng của những bệnh nhân tử vong vì H1N1, Sars, Mers và cúm 1918.
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đang tìm kiếm và điều chế những loại thuốc kháng virus điều trị Covid-19, một số trong đó nhắm vào giải quyết bão cytokine.
Tuy nhiên tình hình sẽ được cải thiện đáng kể khi người bệnh được sử dụng chế phẩm Vetom 1.23, Vetom 1.1 và Vetom 2.26 sớm, ngay trong giai đoạn phòng ngừa dịch bệnh, bởi khi Vetom được uống vào cơ thể chỉ sau 2- 3 tiếng đồng hồ, chủng lợi khuẩn Bacillus subtilis trong chế phẩm Vetom sẽ sản xuất ra một lượng vừa đủ Interferon alpha 2 tương tự như các tế bào bạch cầu nội sinh, còn gọi là Interferon tự nhiên của cơ thể người tạo ra là một dạng Protein miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể, chống lại sự xâm nhập của virus, ngăn chặn sự lan truyền của virus ở các tế bào nhiễm bệnh.
Điều này giúp hệ miễn dịch cho dù có những khiếm khuyết nêu trên thì vẫn nhận được một sự trợ giúp kịp thời để ngăn chặn tiến trình xâm nhập rất nhanh của virus , tránh tình trạng “bão Cytokine” dẫn đến tử vong ở bệnh nhân nhiễm virus Covid-19
Ngoài ra, VETOM Việt Nam có chủng lợi khuẩn dạng bào tử với nồng độ cao, dễ dàng đi qua được môi trường acid dạ dày mà không làm mất tác dụng. Khi đi vào đường ruột, có tác dụng mạnh mẽ – loại bỏ như vi khuẩn có hại bám vào thành ruột, đào thải những chất dư thừa, cặn bã còn tồn đọng, gây viêm nhiễm và ảnh hưởng tới hệ tiêu hóa – hệ miễn dịch cơ thể.